Miền Tây Nam bộ ngày nay, trong kháng chiến là địa bàn của Quân khu 8 và Quân khu 9 cũ, nằm ở vị trí cuối cùng phía Nam của Tổ quốc, xa sự chỉ đạo Trung ương. Đây là địa bàn đông dân, nhiều của, là trọng điểm bình định, mục tiêu thực hiện các chiến lược chiến tranh xâm lược của kẻ thù, nhằm chiếm đất, giành dân, đánh bật lực lượng cách mạng, tách Đảng ra khỏi dân để tiêu diệt. Để đạt được mục tiêu đó, địch tập trung nhiều lực lượng, vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại nhất, thực hiện nhiều thủ đoạn đánh phá ác liệt, khủng bố tàn sát dã man, đi đôi với chiến tranh tâm lý lừa mỵ, mua chuộc, bắt ép nhân dân vào các khu tập trung để kìm kẹp, khống chế… Xuất phát từ đặc điểm chiến trường và âm mưu thủ đoạn của địch, trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhất là trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, Đảng bộ, quân và dân miền Tây Nam bộ luôn phát huy tính chủ động, sáng tạo, tự lực tự cường, tập trung sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân liên tục tiến công địch, giải phóng hoàn toàn địa phương, góp phần cùng cả nước kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Giao bưu vận đi công tác trên chiến trường miền Tây Nam bộ. (ảnh: tư liệu)
Tháng 3/1975, thực hiện sự chỉ đạo của Bộ Tư lệnh Miền, với tinh thần chủ động, sáng tạo, Đảng bộ, quân và dân các địa phương Tây Nam bộ đã tập trung sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân với tinh thần đại đoàn kết dân tộc, đẩy mạnh hoạt động tiến công địch để phối hợp với chiến trường toàn Miền. Ngày 11/3/1975, Sư đoàn 8 (Quân khu 8) tiến công tiêu diệt yếu khu Ngã Sáu (Cái Bè) và đánh quân tăng viện tại kênh Bằng Lăng, tiêu diệt gọn Tiểu đoàn 2 của Trung đoàn 10, Sư đoàn 7 quân đội Sài Gòn. Đây là trận then chốt mở toang cửa ngõ cho khối chủ lực Quân khu tiến xuống áp sát thành phố Mỹ Tho. Sư đoàn 4 (Quân khu 9) hoạt động mạnh ở vùng ruột Hậu Giang, tiến công chi khu Hưng Long, đập tan tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch ở Vị Thanh, tạo điều kiện cho lực lượng chủ lực Quân khu áp sát thành phố Cần Thơ. Trung đoàn 3 ở Vĩnh Trà (Vĩnh Long, Trà Vinh – tiền phương của Quân khu 9) tiến công tiêu diệt yếu khu Thầy Phó, thu pháo 105 mm; giải phóng các xã lân cận, tạo điều kiện thuận lợi mở rộng tuyến sông Măng Thít.
Chấp hành nghị quyết của Trung ương Cục, mệnh lệnh của Bộ Tư lệnh Miền, đảng bộ, quân và dân các địa phương ở miền Tây Nam bộ nhanh chóng tập trung sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân, triển khai thế trận tiến công và nổi dậy với nhiệm vụ cụ thể là: chia cắt chiến lược, cắt đứt và làm chủ lộ 4 (nay là Quốc lộ 1) các đoạn từ Long An – Mỹ Thuận, Vĩnh Long – Cần Thơ và cắt đứt hoàn toàn kênh Chợ Gạo, ngăn chặn không cho địch từ miền Tây lên chi viện cho Sài Gòn và không cho địch từ Sài Gòn thực hiện co cụm chiến lược về miền Tây Nam bộ. Sử dụng lực lượng Sư đoàn 4 tiến công khống chế, tiêu diệt sân bay Trà Nóc, phát triển đánh chiếm thành phố Cần Thơ. Tổ chức một cánh quân tiến công vào hướng Tây Nam Sài Gòn, đánh chiếm Tổng nha cảnh sát ngụy. Tích cực xây dựng và phát triển lực lượng về mọi mặt, thực hành tổng tiến công và nổi dậy, theo phương châm “xã giải phóng xã, huyện giải phóng huyện, tỉnh giải phóng tỉnh”, giải phóng hoàn toàn miền Tây Nam bộ.
Thực hiện nhiệm vụ chia cắt chiến lược, cắt đứt lộ 4, đoạn từ Long An – Mỹ Thuận, theo sự chỉ đạo của Quân khu 8, Sư đoàn 8 chọn ngã ba Trung Lương, cửa ngõ thành phố Mỹ Tho, làm điểm đột phá chủ yếu, vừa cắt đứt lộ, vừa sẵn sàng đánh chiếm thành phố Mỹ Tho và căn cứ Sư đoàn 7 quân đội Sài Gòn ở Đồng Tâm. Từ đêm 26 rạng 27/4/1975, Trung đoàn 320 sử dụng 1 tiểu đoàn bố trí 3 chốt ở đoạn cầu Bến Chùa, 2 tiểu đoàn còn lại đứng ở Đông, Tây lộ 4, liên tục đánh địch phản kích để giữ chốt và cắt đứt hoàn toàn đoạn lộ này cho đến ngày 30/4/1975. Đoạn lộ 4 từ Long Định – Cai Lậy, Tiểu đoàn Ấp Bắc (Mỹ Tho) cùng 2 đại đội địa phương huyện Cai Lậy đã chốt chặn, kìm chân Trung đoàn 12, Sư đoàn 7 và 1 chi đoàn xe thiết giáp địch. Đoạn lộ từ Cai Lậy – An Hữu, Tiểu đoàn công binh 341 và Tiểu đoàn đặc công 283 của Quân khu cùng lực lượng huyện, xã phá đường, cắt đứt giao thông và kìm chân một trung đoàn địch.
Dưới sự lãnh đạo của đảng bộ địa phương, các lực lượng của tỉnh, huyện cùng quần chúng trên địa bàn được huy động tập trung tiến công mạnh mẽ trên mặt trận lộ 4. Địch buộc phải điều lực lượng đến đối phó, bỏ tuyến biên giới, bỏ trống các vùng nông thôn, rút lực lượng về phòng thủ lộ 4.
Ở đoạn lộ 4 từ Vĩnh Long – Cần Thơ, Bộ Tư lệnh tiền phương Quân khu 9 giao cho Trung đoàn 1 và Trung đoàn 3 tập trung đánh cắt lộ 4; uy hiếp địch ở thành phố Cần Thơ từ phía bắc. Hai đơn vị này đã liên tục tiến công cắt đứt và làm chủ nhiều đoạn trên lộ 4. Đến 30/4/1975, Trung đoàn 1 và Trung đoàn 3 tập trung lực lượng cùng bốn tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh tiến công đánh chiếm thị xã Vĩnh Long.
Trên kênh Chợ Gạo, tuyến vận tải nội địa nối liền miền Tây Nam bộ với Sài Gòn, là tuyến vận tải đường thủy quan trọng. Từ ngày 15/4/1975, Tiểu đoàn 514 và Tiểu đoàn 2009 (tỉnh Mỹ Tho) cùng hai đại đội binh chủng đánh thiệt hại nặng phân chi khu Quơn Long và Bình Phục Nhất, bức rút 9 đồn ở Tân Thuận Bình, bắn cháy 12 tàu địch và làm chủ một đoạn dài gần 10 km. Bộ đội tỉnh, bộ đội huyện, du kích xã và hàng ngàn quần chúng huyện Chợ Gạo tham gia làm vật cản căng dây cáp ngang kênh, cắt đứt giao thông và áp sát thị trấn Chợ Gạo.
Với tinh thần chủ động tiến công, quân và dân miền Tây Nam bộ đã huy động sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân hoàn thành tốt nhiệm vụ quan trọng: chia cắt chiến lược, đánh chiếm, cắt đứt và làm chủ nhiều đoạn trên lộ 4 và kênh Chợ Gạo, ngăn chặn không cho địch từ miền Tây lên cứu nguy cho Sài Gòn và không cho địch từ Sài Gòn thực hiện co cụm chiến lược về miền Tây Nam bộ.
Đối với nhiệm vụ khống chế, tiêu diệt sân bay Trà Nóc, đêm 28/4/1975, Sư đoàn 4 vượt sông Cần Thơ qua lộ Vòng Cung, nhưng chỉ có Trung đoàn 20 qua được lộ Vòng Cung. Đêm 29/4/1975, Trung đoàn bám được vùng ven sân bay, vừa đánh địch phản kích, vừa dùng hỏa lực, kết hợp với hai chốt pháo của Quân khu khống chế hoàn toàn sân bay Trà Nóc, không cho máy bay địch cất cánh, hạ cánh. Trưa 30/4/1975, Trung đoàn 20 nhanh chóng đánh chiếm sân bay Trà Nóc, thu giữ nhiều máy bay còn nguyên vẹn cùng toàn bộ trang thiết bị tại sân bay.
Thực hiện nhiệm vụ tham gia đánh chiếm Sài Gòn từ phía Tây Nam, Quân khu 8 tổ chức một cánh quân gồm Trung đoàn 24, Trung đoàn 88 và hai tiểu đoàn địa phương của tỉnh Long An mở đường xuyên qua phía đông Long An tiến về hướng Nhà Bè, Quận 8. Với quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ, lực lượng ta vừa hành quân, vừa đánh địch để mở đường mà đi; vừa làm tốt công tác binh địch vận, vận động quần chúng; vừa bảo đảm kịp thời nổ súng tiến công cùng với các hướng khác. Sau 16 ngày đêm hành quân liên tiếp, được sự hỗ trợ, giúp đỡ của các địa phương trên đường hành quân, cánh quân này đã diệt 40 đồn bốt địch, giải phóng 20 xã, đến khu vực Bình Chánh (vùng ven Sài Gòn) vào ngày 25/4/1975. Lúc 10 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, Trung đoàn 24 đánh chiếm mục tiêu chủ yếu: Tổng Nha Cảnh sát địch. Trung đoàn 88 và hai tiểu đoàn tỉnh Long An đánh chiếm khu kho Tân Thuận, Tổng kho xăng dầu, cảng Nhà Bè. Cánh quân của Quân khu 8 đã hoàn thành tốt nhiệm vụ tiến công Sài Gòn từ hướng tây nam đúng thời gian quy định, hiệp đồng chặt chẽ với các cánh quân khác tham gia đánh chiếm Sài Gòn một cách nhanh gọn.
Đối với nhiệm vụ tự lực giải phóng địa phương, với tinh thần chủ động, hầu hết các tỉnh miền Tây Nam bộ đã huy động, tập trung sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân địa phương, chuẩn bị sẵn sàng lực lượng áp sát thành phố, thị xã, thị trấn. Các tỉnh đều phát triển thêm lực lượng, mỗi tỉnh có từ 3 đến 4 tiểu đoàn trở lên; riêng tỉnh Cà Mau, lực lượng bộ đội địa phương tỉnh phát triển đến 12 tiểu đoàn, cấp huyện thành lập tiểu đoàn bộ đội địa phương, đưa lực lượng tham gia tiến công vào thị xã.
Ngày 26/4, Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử bắt đầu. Cùng ngày, Khu ủy, Quân khu ủy Quân khu 8 và Quân khu 9 gửi thư động viên toàn thể lực lượng vũ trang, lực lượng chính trị; kêu gọi các cấp, các đơn vị phải thấy rõ trách nhiệm lịch sử của mình, góp phần vào trận đánh lịch sử giải phóng Sài Gòn; đồng thời phải tự lực giải phóng tỉnh, huyện, xã mình. Thường vụ Khu ủy và Bộ Tư lệnh hai quân khu phát động một cao trào huy động sức mạnh tổng hợp, tiến công mạnh mẽ, đều khắp ở tỉnh, huyện, xã với khí thế tổng tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn địa phương. Mũi nổi dậy của quần chúng được các cấp ủy đảng chuẩn bị kế hoạch từ đầu tháng 4/1975. Ta đã đưa cán bộ nòng cốt vào trong nội ô thành phố, thị xã, thị trấn; nhanh chóng xây dựng và tổ chức lực lượng vũ trang, chính trị, binh vận, phát động quần chúng hiệp đồng tiến công để giành thắng lợi trọn vẹn.
Thực hiện kế hoạch tổng tiến công và nổi dậy, đêm 28 rạng 29/4/1975, các lực lượng của quân khu, tỉnh, huyện đồng loạt tiến công vào các thành phố, thị xã, thị trấn. Phong trào nổi dậy của quần chúng diễn ra dưới nhiều hình thức sinh động từ thấp đến cao, góp phần làm cho hệ thống chính quyền địch ở cơ sở nhanh chóng tan rã.
Bộ đội chủ lực Quân khu 8 phối hợp với bộ đội địa phương bao vây, tiến công thành phố Mỹ Tho. Bộ đội chủ lực Quân khu 9 cùng địa phương tiến công thành phố Cần Thơ và thị xã Vĩnh Long. Trưa ngày 30/4/1975, khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân miền Tây Nam bộ được phát triển mạnh mẽ.
Trà Vinh là tỉnh được giải phóng sớm nhất ở miền Tây Nam bộ bằng tiến công quân sự kết hợp chặt chẽ với mũi nổi dậy của quần chúng. Từ 5 giờ ngày 30/4, lực lượng vũ trang tỉnh (5 tiểu đoàn bộ binh, 2 đại đội đặc công, đại đội trợ chiến) đã đánh chiếm nhiều mục tiêu trong thị xã. Đến 9 giờ cùng ngày, lực lượng khởi nghĩa xuống đường, treo băng cờ, khẩu hiệu, khoảng 20.000 quần chúng tham gia tiến công, bao vây quân địch, tước vũ khí các tiểu đoàn bảo an, truy bắt bọn ác ôn. Chị em phụ nữ và sư sãi vận động được 60 binh lính địch ở sân bay ra đầu hàng. Lúc 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, cờ Mặt trận dân tộc giải phóng được tung bay trên nóc dinh Tỉnh trưởng Vĩnh Bình (Trà Vinh).
Thị xã Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu được giải phóng chủ yếu bằng lực lượng chính trị và binh vận. Từ ngày 28/4, một bộ phận lực lượng vũ trang và cán bộ chỉ đạo khởi nghĩa vào thị xã hướng dẫn quần chúng các phường, khóm tác động lực lượng địch ở cơ sở. Lực lượng ta tổ chức liên lạc với Tỉnh trưởng Bạc Liêu, yêu cầu bàn giao chính quyền cho cách mạng. Ngày 29/4, Tỉnh trưởng Bạc Liêu hứa sẽ bàn giao chính quyền, nhưng vì chưa có lệnh cấp trên và còn phải thuyết phục cấp dưới, nên đề nghị ta cho thêm thời gian; đồng thời giao cho ta một xe Jeep để làm phương tiện đi lại. Sáng ngày 30/4, ta cắm cờ Mặt trận trên xe, chạy thẳng vào Dinh Tỉnh trưởng. Đông đảo quần chúng hưởng ứng tập trung tại Dinh Tỉnh trưởng, buộc Tỉnh trưởng Bạc Liêu tuyên bố đầu hàng, bàn giao chính quyền cho cách mạng vào lúc 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975.
Tại thành phố Mỹ Tho (trọng điểm của Quân khu 8), lúc 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, Đội biệt động thành phố và cơ sở mật phát động quần chúng nổi dậy. 16 giờ ngày 30/4, cờ giải phóng được treo tại Trường Trung học Nguyễn Đình Chiểu. Lực lượng chủ lực quân khu và bộ đội tỉnh tiếp tục tiến công các mục tiêu địch còn ngoan cố chống cự trong thành phố. Đến 24 giờ ngày 30/4/1975, Trung đoàn 1 của Sư đoàn 8, Tiểu đoàn đặc công 269 cùng hai tiểu đoàn bộ đội địa phương tỉnh và lực lượng thành phố chiếm Dinh Tỉnh trưởng. 5 giờ sáng ngày 1/5/1975, thành phố Mỹ Tho được hoàn toàn giải phóng.
Ở thành phố Cần Thơ (trọng điểm 1 của Quân khu 9) – nơi có cơ quan đầu não của Quân đoàn 4 – Quân khu 4 Việt Nam Cộng hòa, Quân khu tập trung lực lượng chủ lực, kết hợp với lực lượng nổi dậy của quần chúng, liên tục tiến công từ đêm 29/4/1975. Khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, Ban Chỉ huy khởi nghĩa nội thành đã nhạy bén, kịp thời chớp thời cơ, truyền lệnh khởi nghĩa. Các cơ sở đảng trong nội ô phát động quần chúng nổi dậy. Lực lượng cán bộ vào trước cùng với cơ sở quần chúng tại chỗ nổi dậy giành chính quyền, làm chủ phường, khóm. Cùng lúc, chủ lực quân khu và lực lượng bộ đội địa phương tiến công mạnh mẽ các mục tiêu của địch trong thành phố. Trước tình hình hỗn loạn, quân lính tan rã, quần chúng nổi dậy rầm rộ, hầu hết các mục tiêu trong thành phố bị ta đánh chiếm, tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lệnh Quân đoàn 4 – Quân khu 4 Việt Nam Cộng hòa buộc phải tuyên bố đầu hàng vào lúc 15 giờ ngày 30/4/1975.
Tại thị xã Vĩnh Long (trọng điểm 2 của Quân khu 9), chiều 30/4/1975, lực lượng ta đã chiếm các mục tiêu quan trọng trong nội ô thị xã. Ta kêu gọi Tỉnh trưởng và Trung đoàn trưởng Trung đoàn 16 Sư đoàn 9 địch đầu hàng (lúc này trong nội ô thị xã, Thị xã ủy lãnh đạo quần chúng nổi dậy diệt đồn, phá rã phòng vệ dân sự). Thấy tình hình không thể cứu vãn nổi và không chỉ huy được các chi khu, Tỉnh trưởng Vĩnh Long buộc phải đầu hàng. Lúc 23 giờ ngày 30/4/1975, lực lượng ta tiến vào tiếp quản, làm chủ hoàn toàn thị xã.
Dù ở xa đất liền, nhưng với tinh thần chủ động, khi được tin Dương Văn Minh đầu hàng, Huyện ủy và Huyện đội Phú Quốc kịp thời huy động lực lượng tại chỗ, áp sát tiến công các đồn bốt địch. 16 giờ ngày 30/4, lực lượng ta tiến vào chiếm lĩnh thị trấn Dương Đông. Sau đó, tiếp tục tiến công giải phóng hoàn toàn các mục tiêu trên đảo. Bằng sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân và lực lượng của chính mình, huyện đảo Phú Quốc (Kiên Giang) tự giải phóng vào lúc 20 giờ ngày 30/4.
Ở Côn Đảo (lúc bấy giờ thuộc tỉnh Sóc Trăng, Quân khu 9), là đặc khu của chính quyền Sài Gòn. Trên đảo, địch xây dựng 8 trại giam, có 1 tiểu đoàn bảo an và 1 đại đội cảnh sát canh giữ. Nơi đây, tính đến năm 1975, địch giam giữ trên 7.000 người, trong đó có khoảng 4.000 tù chính trị. Ngày 30/4, sau khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, địch trên đảo tháo chạy hỗn loạn đến. Lúc 1 giờ ngày 1/5 một nhóm công chức, giám thị… vào trại 7 mở cửa một phòng tại khu H, báo tin Sài Gòn giải phóng. Anh em tù chính trị nhanh chóng mở cửa trại, đục tường ra ngoài. Các đồng chí lãnh đạo trại 7 nhanh chóng họp, đề ra chương trình hành động. Đến 18 giờ ngày 1/5, lượng nổi dậy của tù chính trị phá xà lim, làm chủ Côn Đảo. Đêm 2/5, trạm vô tuyến trên đảo bắt được liên lạc với đất liền, báo tin Côn Đảo hoàn toàn giải phóng.
Bằng sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân địa phương, trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, hầu hết các tỉnh khác trên khắp miền Tây Nam bộ, từ tinh thần chủ động, với sức mạnh tổng hợp và lực lượng của chính mình, quân và dân ta đã đồng loạt tiến công địch từ ngày 26/4/1975, phối hợp tiến công và nổi dậy, tự lực giải phóng hoàn toàn địa phương trong ngày 30/4 và 1/5/1975.
Riêng tại tỉnh Long Châu Tiền (gồm một số huyện của tỉnh Đồng Tháp và tỉnh An Giang ngày nay), Tiểu khu trưởng Sa Đéc, Tiểu khu trưởng Châu Đốc và một số sỹ quan Việt Nam Cộng hòa đã tập hợp trên 10.000 lính bảo an từ các nơi dồn về Tổ Đình ở xã Hòa Hảo (huyện Phú Tân) tuyên bố tử thủ. Trong hai ngày 1 và 2/5/1975, chúng ra thông báo gửi tín đồ Hòa Hảo và binh sĩ đòi thành lập khu tự trị của đạo Hòa Hảo ở tỉnh Long Xuyên và Châu Đốc. Sau đó, chúng đòi lập khu tự trị ở huyện Phú Tân. Đến thông báo thứ 5, chúng đòi giữ một trung đội bảo an để bảo vệ Tổ Đình. Đêm 2/5, lực lượng ta đến Tổ Đình, phát động quần chúng tín đồ Hòa Hảo nổi dậy cùng lực lượng vũ trang vây ép và sẵn sàng tiêu diệt các tiểu đoàn bảo an ngoan cố, hỗ trợ quần chúng tín đồ trực tiếp đấu tranh với Trung ương Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo, buộc chúng phải đầu hàng vô điều kiện. Với lý lẽ sắc bén và thái độ cương quyết của lực lượng cách mạng, cuối cùng chúng phải ra thông báo số 6 kêu gọi binh sĩ nộp vũ khí, trình diện với cách mạng. 7 giờ ngày 3/5, lực lượng ta vào Tổ Đình, tiếp nhận bàn giao vũ khí của hơn 8.000 lính bảo an. Thái độ đúng đắn của cán bộ, chiến sĩ ta nhanh chóng giải tỏa sự lo sợ sự trả thù theo luận điệu chiến tranh tâm lý của địch. Trước sự chứng kiến của quần chúng, ta tổ chức khui 6 hầm vũ khí chôn giấu trong trụ sở Giáo hội. Vùng Tổ Đình Hòa Hảo được giải phóng.
Sau khi Tổ Đình được giải phóng, một số tàn quân của bảo an tiếp tục co cụm về Chợ Mới, tập trung tại chùa Tây An, coi đây là nơi tử thủ cuối cùng. Tỉnh Sa Đéc điều động lực lượng đến và phát động quần chúng bao vây, tiến công làm tan rã đám tàn quân ở chùa Tây An. Ngày 6/5/1975, cờ giải phóng tung bay trên chùa Tây An, mảnh đất cuối cùng của miền Tây Nam bộ được hoàn toàn giải phóng.
Quân giải phóng tiến vào thị xã Bạc Liêu. (ảnh: tư liệu)
Trong khi đó, tại Sở Chỉ huy Chiến dịch Hồ Chí Minh, Bộ Tư lệnh Miền cũng đã chuẩn bị sẵn sàng một lực lượng xe tăng, pháo binh, cao xạ để sau khi giải phóng Sài Gòn, sẽ chi viện cho Quân khu 8 và Quân khu 9, nhằm nhanh chóng đập tan quân địch còn ngoan cố chống cự. Nhưng trên thực tế, với tinh thần chủ động, sáng tạo, phát huy sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân trong thực hành Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, quân và dân miền Tây Nam bộ đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình trong trận quyết chiến chiến lược, góp phần xứng đáng vào công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Bằng lực lượng của chính mình, dựa vào thế trận chung của toàn Miền, đặc biệt là sức tiến công và nổi dậy của quân và dân ta trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, quân và dân miền Tây Nam bộ đã tự lực giải phóng địa phương, không chờ đợi trên chi viện, mà còn vinh dự tham gia một hướng tiến công giải phóng Sài Gòn. Có thể nói, sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân là nhân tố quan trọng quyết định thắng lợi trọn vẹn trong mùa Xuân đại thắng 1975 ở miền Tây Nam bộ.