Cuộc hội ngộ đặc biệt của năm anh em theo cách mạng
Đại gia đình ông Hoàng Thúc Cẩn chụp hình với Đại tướng Võ Nguyên Giáp và phu nhân.
Trong căn nhà nhỏ ở phố Hồ Đắc Di (Hà Nội), ông Cẩn chậm rãi kể cho tôi nghe bằng chất giọng Quảng Bình: “Gia đình tôi ở làng Minh Lệ, xã Quảng Minh, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Bố tôi là nhà nho Hoàng Bá Chuân thuộc dòng dõi lưỡng quốc trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi. Nhà nghèo nhưng ông bà đều hướng cho năm người con theo con đường học hành. Theo lời hiệu triệu của Bác Hồ, bố mẹ tôi đã tự tay “tiêu thổ kháng chiến”, hiến tất cả tài sản, ruộng vườn phục vụ cách mạng. Suốt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, bố tôi là Hội trưởng Hội Liên Việt, mẹ tôi là Hội trưởng Hội Mẹ chiến sĩ. Khi ấy, các con đang “dùi mài kinh sử” ở Huế. Vì nghèo quá nên anh em mới “phát minh” ra việc đi làm gia sư cho con nhà người ta để được ăn ở trong nhà họ mà đi học. Anh Hoàng Thúc Cảnh là người tiên phong làm gia sư, vừa có cơm ăn, vừa có tri thức, đã “lót ổ” dắt díu nhau, người trước tiếp sức cho người sau như một dây chuyền lao động. Kết quả ba người kế tiếp nhau học tập nên người. Thầy của chúng tôi hồi đó ở trường Thuận Hóa là Đào Duy Anh, Tôn Quang Phiệt, Hoài Thanh, Tế Hanh… Nhờ học các thầy, anh em tôi đều sớm giác ngộ đi theo cách mạng”.
Trước tình cảnh nước mất, nhà tan, hai cụ thân sinh đã động viên các con lên đường cứu nước, không ngại hy sinh, không nề gian khổ. Những lần tiễn con, tuy nước mắt lưng tròng nhưng người mẹ vẫn cố cười vui, dặn dò con yên tâm lên đường cầm súng: Phải làm trọn phận trai khi đất nước có giặc, phải phấn đấu bằng anh, bằng chị, vượt qua hiểm nguy để lập công, đem vinh quang về cho gia đình và quê hương… Bà làm thơ động viên con em xung phong tòng quân giết giặc: “Nhà tôi sinh được bảy người con/ Quyết chí chung tình với nước non/ Kháng chiến năm con đi khắp nước/ Lớn lên hai cháu sẽ xung phong…”.
Kẻ trước người sau cả năm anh em đều đi theo tiếng gọi của non sông. Ông Cảnh tham gia cách mạng từ trước tháng 8 năm 1945. Ông ra Thanh Hóa làm việc, đồng thời bí mật hoạt động cách mạng, sau đó trở thành cán bộ quân sự – chính trị đầu tiên phụ trách Văn phòng Tỉnh bộ Việt Minh Thanh Hóa, rồi làm Hội thẩm chính trị Tòa án quân sự và được chọn làm thư ký cho cụ Hồ Tùng Mậu – Chủ tịch Ủy ban Hành chính kháng chiến Liên khu 4, sau đó chuyển ra bắc, công tác tại Văn phòng Phủ Chủ tịch.
Ông Hoàng Thúc Tuệ – một trong số học sinh giỏi được Nam Phương Hoàng hậu trao thưởng nhưng tháng 3 năm 1945 tham gia Việt Minh, cướp chính quyền ở huyện, rồi được chọn đi học trường sĩ quan lục quân Quảng Ngãi, dưới cờ tướng Nguyễn Sơn, tham gia đánh Pháp ở cực Nam Trung Bộ, Lào, rồi Điện Biên Phủ.
Ông Cẩn tham gia Việt Minh, sau vào quân đội, công tác tại Phòng Chính trị Liên khu 4, được đi học Trường Quân chính Quân khu 4, rồi về Trung đoàn 9 – Đại đoàn 304. Ngày 2-9-1945, Hoàng Thúc Cẩn lúc ấy đang chỉ huy một đội du kích thiếu niên ở Quảng Bình đã rưng rưng nước mắt khi lần đầu tiên được nếm trải cảm giác trở thành công dân của một nước Việt Nam độc lập. Thế rồi, theo chặng đường cách mạng, 20 tuổi, ông Cẩn đã phụ trách một đội đặc nhiệm, trực tiếp chỉ huy đánh đòn phủ đầu quân Pháp. Sau đó, ông chỉ huy trận tập kích pháo binh vào căn cứ địch ở Phát Diệm – Ninh Bình, gây tiếng vang lớn trong chiến dịch Hà Nam Ninh, được Đại tướng Võ Nguyên Giáp khen ngợi. Trong chiến dịch Hòa Bình, ông Cẩn chỉ huy mũi chủ công của Đại đội 71 đánh địch ở cầu Cụt Tai trên đường số 6. Nhưng thực dân Pháp lại mang một số lượng quân lớn từ Hà Nội lên cứu viện, cả tổ chiến đấu của ông Cẩn lọt thỏm giữa vòng bao vây của giặc ròng rã hơn 10 ngày trời. Về sau thoát ra được, về đến đơn vị, ông Cẩn mới biết các đồng đội đã làm lễ truy điệu cho mình. Vì trước đó, họ mất hẳn liên lạc, dù có tỏa ra tìm kiếm khắp nơi nhưng không thấy, không ai nghĩ rằng tổ chiến đấu của ông còn sống sót. Một người bạn cùng quê lúc biết đơn vị tổ chức lễ truy điệu cho ông Cẩn, đã tìm cách để báo tin cho ông Tuệ. Đinh ninh em mình đã hy sinh, mẹ cũng mới mất mà không về được, ông Tuệ xúc động làm bài thơ Khóc em giữa chiến trường Hòa Bình: “Em Cẩn ơi! Sao em đi vội thế/Xuân này em mới chớm đôi mươi…”. Ngày 10-10-1954, đơn vị của ông Cẩn về qua Đông Anh, qua cầu Long Biên, Ô Quan Chưởng, tiến vào Hà Nội, cùng với những cánh quân khác ở những hướng khác.
Đại tá Hoàng Thúc Cẩn.
Người tiếp theo, ông Hoàng Thúc Tấn tự túc ăn học ở Nghệ An, rồi vào Thiếu sinh quân, ra trường tham gia chiến đấu trên chiến trường Liên khu 3-4.
Ông Hoàng Quý Thân lúc đó đang đi học ở trường Huỳnh Thúc Kháng – thành phố Vinh, dù chưa đủ tuổi tòng quân vẫn tìm cách xin đi bộ đội để được tham gia chiến đấu, hòa vào đoàn quân giải phóng Thủ đô.
Kể từ ngày mẹ tiễn năm anh em lên đường, mỗi người một nơi, biền biệt chín năm trường kỳ kháng chiến bặt tin nhau, không biết ai còn ai mất. Nhưng đến một ngày thu tháng 10 năm 1954, năm anh em một nhà tình cờ gặp nhau theo các cánh quân về giải phóng Thủ đô, một câu chuyện mà đến bây giờ nghĩ lại, ông Cẩn cứ ngỡ như trong mơ.
Khi ấy, đơn vị ông Cẩn đang đóng quân ở Đông Khê thì được lệnh tiến về Hà Nội. Ông Cảnh theo cơ quan Chính phủ từ ATK Việt Bắc tiến thẳng vào Phủ Toàn quyền rồi đóng quân ở Đồn Thủy (Quân y viện 108 bây giờ). Ông Tuệ theo Đại đoàn 304 từ Xuân Mai về Ngã Tư Sở, vào Bạch Mai và tiếp quản một số cơ sở trong nội thành. Ông Tấn từ Hòa Bình vào Ô Chợ Dừa, đến Ô Quan Chưởng rồi qua Long Biên và đóng quân ở đầu cầu Long Biên. Ông Thân theo một đơn vị bộ đội từ Liên khu 4 ra tiếp quản Thủ đô. Chẳng hiểu cơ duyên nào mà Thân lại tìm được nơi đóng quân của anh Cẩn. Anh em gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Thân được chỉ huy đơn vị cho ở lại cùng anh Cẩn, sinh hoạt, luyện tập như một người lính thật sự.
Ông Cẩn dặn anh em trong đơn vị: “Nếu gặp được anh em tôi thì nhờ hẹn giúp: cứ sáng chủ nhật đến gặp nhau ở đền Ngọc Sơn”. Khi ông bước tới đầu cầu Long Biên (phía Gia Lâm) để sang điểm hẹn thì thấy đi phía trước mấy bước có một anh bộ đội hình dáng giống em mình, ông vội gọi thử: “Tấn”. Anh bộ đội ngoảnh lại. Đúng là em trai! Hai anh em chạy đến ôm nhau nghẹn ngào, cứ để cho nước mắt ướt cả bờ vai, trước sự ngỡ ngàng của bao người qua.
Sau đó cả ba anh em cùng đi bộ qua cầu Long Biên, đến cầu Thê Húc để vào đền Ngọc Sơn thì đã thấy anh Tuệ đang đợi trên cầu. Cả bốn anh em nằm gọn trong vòng tay nhau. Vì bận công tác, nên mãi chủ nhật sau, họ mới gặp được anh Cảnh, từ Tháp Bút, qua cầu Thê Húc tới điểm hẹn. Năm anh em ôm nhau “vui sao nước mắt lại trào”.
Kể từ ngày ấy, đến nay đại gia đình của ông Cẩn đã có ba thế hệ với gần 80 người con, cháu. Hầu hết con cháu noi gương các bậc cha chú đều học hành thành đạt. Trước khi nghỉ hưu, ông Hoàng Thúc Cảnh là cố vấn của Văn phòng Chính phủ. Ông Hoàng Thúc Tuệ và Hoàng Thúc Cẩn đều là đại tá quân đội. Ông Hoàng Thúc Tấn là Thứ trưởng, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ. Ông Hoàng Quý Thân là tiến sĩ khoa học. Người em út Hoàng Gia Cương là kỹ sư và là nhà thơ.
Cứ vào dịp mùa thu, đại gia đình có một địa chỉ thiêng liêng để tụ họp: đền Ngọc Sơn, để kỷ niệm ngày năm anh em hội ngộ năm ấy. Mùa thu này, đã vắng đi ông Hoàng Thúc Tuệ, và dù phải ngồi xe lăn nhưng ông Hoàng Thúc Cẩn vẫn sẽ ra điểm hẹn đền Ngọc Sơn…