Từ ngày 14/4 đến 28/4/1975, quân đội nhân dân Việt Nam mà nòng cốt là Đoàn 126 đặc công hải quân tiến hành giải phóng 6 đảo: Song Tử Tây, Sơn Ca, Nam Yết, Sinh Tồn, Trường Sa Lớn và An Bang thuộc quần đảo Trường Sa do quân lực Việt Nam Cộng hòa đóng giữ.
Tham gia giải phóng các đảo thuộc quần đảo Trường Sa, còn có đặc công của tiểu đoàn 471 (Quân khu 5). Sau khi tiếp cận và hoàn tất công tác trinh sát, sáng 25/4/1975, lệnh tấn công lên đảo Sơn Ca được đưa ra. Chỉ 30 phút sau khi nổ súng, lá cờ của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam đã tung bay trên hòn đảo này.
Bộ đội luyện tập ở Trường Sa những ngày đầu sau giải phóng. Ảnh do nhà báo Nguyễn Khắc Xuể chụp tháng 5/1975.
Bộ đội hải quân ở đảo Nam Yết. Trong thư chúc Tết gửi cán bộ, chiến sĩ Trường Sa năm 1976, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhấn mạnh bảo vệ quần đảo là nhiệm vụ nặng nề nhưng rất vẻ vang của các chiến sĩ. “Tôi đã nhận được món quà Tết rất quý: san hô và các sản phẩm từ Trường Sa của các đồng chí do Bộ Tư lệnh Hải quân chuyển về. Rất cảm ơn. Thân gửi đến tất cả lời chúc quyết tâm bảo vệ quần đảo”, thư viết.
Từ tháng 3/1976, Bộ Quốc phòng cùng Bộ Tư lệnh Hải quân giao cho Trung đoàn công binh 83 (nay là Lữ đoàn 83) làm nhiệm vụ xây dựng đảo. Hàng trăm tốp công binh và các lực lượng ra đảo cắm mốc chủ quyền, xây dựng đảo chìm, các hạng mục công trình chiến đấu, sinh hoạt cho bộ đội. Từ tháng 3 đến tháng 5 hàng năm, lính công binh cho tập kết vật liệu lên các đảo vì các tháng còn lại thời tiết khắc nghiệt do áp thấp nhiệt đới và gió mùa đông bắc gây khó khăn cho việc vận chuyển.
Khi thủy triều cạn nước/ Đảo hiện hình Thuyền Chài/ Chỉ có nắng và gió/ Với đảo và con trai… Những câu thơ của đại tá Nguyễn Kiều Kinh, Trưởng phòng chính sách – Cục Chính trị Quân chủng Hải quân viết từ khi còn là khung trưởng đi xây đảo ở Trường Sa. Trong ảnh là đoàn công tác Bộ tư lệnh Công binh trên căn nhà thuộc thế hệ đầu ở đảo Thuyền Chài. Để xây được những công trình bề thế, chịu được muối mặn, sóng gió, bão tố Trường Sa, những người lính phải đổ cả mồ hôi lẫn máu, vác từng viên đá xây đảo trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt.
Tháng 5/1988, Đô đốc Giáp Văn Cương, Tư lệnh Hải quân chào cờ đầu tuần cùng các chiến sĩ trên pôngtông cạnh đảo Thuyền Chài. Sau lễ chào cờ này, ông có buổi nói chuyện cùng cán bộ, chiến sĩ và ra một quyết định mà bản thân ông cũng cho rằng “tàn nhẫn”, đó là cắt phép của lính đảo. “Tớ đâu có muốn đày đọa các cậu. Giá trị gì mấy hòn đá cằn cỗi này mà phải gìn giữ. Nhưng đây là tổ quốc của mình, là máu thịt của mình. Chúng ta giữ gìn có phải giữ mấy hòn đá hoang dại này đâu mà là giữ biển đấy chứ. Mất đảo là mất biển, mà biển bao bọc suốt từ Bắc đến Nam. Tất cả kẻ thù đánh ta đều đi từ đường biển. Thế thì chúng ta phải giữ đảo, giữ biển thôi. Khổ mấy cũng phải giữ, có chết cũng phải giữ. Thế nên chúng mày mới phải chịu cảnh đọa đầy thế này. Tao già rồi, ngoài 70 rồi, lẽ ra phải được ở nhà an thú tuổi già, vậy mà vẫn phải lọ mọ lặn lội sóng gió ra đây với chúng mày, vẫn phải làm Tư lệnh”, lời Đô đốc Giáp Văn Cương nói khi ấy sau này được nhiều lính đảo kể lại.
Cổng chào, trạm gác đơn sơ ở cuối cầu cảng đảo Trường Sa lớn – “thủ đô” của quần đảo Trường Sa hôm nay.
Bữa cơm trưa vội vã bên mâm pháo của cán bộ, chiến sĩ đảo Phan Vinh. Đảo được đặt theo tên của anh hùng liệt sĩ Nguyễn Phan Vinh – thuyền trưởng của nhiều con tàu không số trong kháng chiến chống Mỹ.
Khi mới bước chân lên đảo, những người lính đã có ý thức xây dựng một Trường Sa xanh khi xin đất liền chở ra hàng trăm tấn đất phù sa, hạt rau và những giống hoa ra đảo. Từ những cây cổ thụ này, lính đảo đã chiết cành, ươm mầm để đảo hôm nay rợp bóng mát. Mỗi mùa công binh ra xây dựng đảo, thiếu tướng Hoàng Kiền, khi ấy là Trung đoàn trưởng Trung đoàn Công binh Hải quân 83 cùng anh em ra ngoại ô Đà Nẵng, chọn nơi đất tốt, đất màu xúc mang về. Một bộ phận khác còn đi nhặt phân trâu, phân bò nhào với đất rồi chuyển xuống tàu, chở ra các đảo để trồng cây.