Lời tác giả: Điệp viên Nguyễn Thanh Điềm, bí số J2, D.104 – nhân vật mà chúng tôi đề cập trong bài viết này có lẽ quê hương sinh ra ông ít người biết, nhưng nhắc đến những trận đánh, những chiến công mà quân và dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở Bến Tre, như: Chiến thắng Lộ Thơ năm 1964 của Tiểu đoàn 516; chiến thắng diệt hàng trăm tên Mỹ, nguỵ trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968; bắt tên Đại tá Phạm Chí Kim, Tỉnh Trưởng tỉnh Kiến Hoà sau ngày 30/4/1975…; 5 trận đánh của An ninh T4 vào cơ quan đầu não của nguỵ quyền Sài Gòn những năm 1970; phá tan cánh cửa thép Xuân Lộc tháng 4/1975; đánh chiếm thành Cổ Loa (căn cứ Pháo binh) và trại Phù Đổng (căn cứ Thiết giáp) nguỵ sáng ngày 30/4/1975; cung cấp hàng tấn lương thực, thuốc tây cho lực lượng An ninh Bà Rịa – Long Khánh những năm 1970 – 1973; phá 10 tổ chức phản động âm mưu lật đổ chính quyền các mạng lớn nhất sau ngày 30/4/1975; hay thành tích trong công tác chăm lo cho gia đình liệt sĩ, an sinh xã hội… thì ai cũng nghe, cũng biết… Và, những chiến công đó, thành tích đó đều có dấu ấn quan trọng của J2, D.104 – Nguyễn Thanh Điềm – người con của quê hương Đồng Khởi anh hùng.
Trở thành điệp viên hoạt động trong lòng địch
Nguyễn Thanh Điềm sinh ra trong một gia đình giàu truyền thống cách mạng của quê hương An Khánh anh hùng. Tham gia cách mạng năm 1959, lúc 12 tuổi. Tuổi nhỏ chủ yếu các anh, các chú giao cho nhiệm vụ lân la nắm tình hình địch ở các đồn bót trong xã để báo cáo; tham gia bảo vệ Ban Chỉ huy Đồng Khởi xã An Khánh…
Nguyễn Thanh Điềm tham gia trận đánh đầu tiên với vai trò là một chiến sĩ dân công hỏa tuyến, vừa tải thương vừa chiến đấu trong trận đánh Lộ Thơ năm 1964 của Tiểu đoàn 516; cũng trong trận đánh này, Nguyễn Thanh Điềm gặp và biết Đại tá Trần Quốc Việt lúc đó là chiến sĩ nhỏ tuổi nhất của tiểu đoàn giữa lúc trận chiến vô cùng khốc liệt. Trận đánh này ta giành thắng lợi lớn, tiêu diệt hàng trăm tên địch có 4 cố vấn Mỹ. Do lập thành tích suất sắc nên sau trận đánh Nguyễn Thanh Điềm được Ban Chỉ huy Tiểu đoàn tặng giấy khen và được kết nạp vào Đoàn Thanh niên lao động. Sau đó, Nguyễn Thanh Điềm trở về địa phương tham gia lực lượng vũ trang địa phương, lập nhiều thành tích trong chế tạo vũ khí thô sơ và nổi bật là tổ chức đánh địch bằng vũ khí thô sơ kết hợp ong vò vẽ tiêu diệt gần 30 tên địch, tham gia phá ấp chiến lược… Do có nhiều thành tích, gan dạ, thông thạo địa bàn nên năm 1966 Nguyễn Thanh Điềm được rút về công tác tại Tổ Quân báo huyện đội Châu Thành. Tháng 11/1966, trong lần đi trinh sát địa bàn Tân Thạch, trên đường về báo cáo tình hình, Nguyễn Thanh Điềm lọt vào ổ phục kích bị địch bắn gãy bàn chân phải, đồng chí dùng lựu đạn đánh trả quyết liệt, được sự tiếp ứng kịp thời của đồng đội, đưa ông về trạm xá điều trị vết thương. Do thiếu thuốc, vết thương bị nhiễm trùng phải cưa bỏ một đoạn chân phải. Địch đánh phá ngày càng ác liệt vào địa bàn, điều kiện hoạt động của đồng chí gặp khó khăn. Trước tình hình đó, lãnh đạo Quân báo huyện, tỉnh lúc bấy giờ quyết định đưa đồng chí ra thành điều trị vết thương, khi có điều kiện chui sâu vào hoạt động trong lòng địch. Sau đó, năm 1967 tổ chức đưa đồng chí ra bàn giao cho đồng chí Son A – Trưởng lưới tình báo Vùng 4 chiến thuật ngụy (là cơ sở của ta) và cơ sở của ta trong Hội Hồng thập tự tỉnh Kiến Hoà đưa đồng chí lên trung tâm chấn thương, chỉnh hình Sài Gòn – Số 70 Bà Huyện Thanh Quan điều trị vết thương và làm chân giả. Quá trình ở điều trị vết thương tại đây Nguyễn Thanh Điềm lân la làm quen với tướng tá ngụy cùng nằm điều trị ở đây trong đó có Lê Minh Đảo lúc này làm Tỉnh trưởng Chương Thiện kiêm Tiểu khu Trưởng tỉnh Chương Thiện, sau này là Tư lệnh Sư đoàn 18 bộ binh nguỵ và được Lê Minh Đảo nhận làm con nuôi. Nguyễn Thanh Điềm về báo cáo với điệp báo viên Lê Thành Trung, báo cáo xin ý kiến lãnh đạo Quân báo tỉnh và được lãnh đạo đồng ý cho Nguyễn Thanh Điềm làm con nuôi tướng Lê Minh Đảo kể từ đó Nguyễn Thanh Điềm chính thức trở thành điệp viên hoạt động trong lòng địch với bí số J2, dưới sự quản lý, chỉ đạo trực tiếp của Quân báo Tỉnh đội Bến Tre.
Những chiến công thầm lặng
Có thể nói trên lĩnh vực tình báo J2 đã cung cấp kịp thời nhiều tin tức quan trọng trong những thời khắc lịch sử, giúp cho ta nắm được âm mưu và kế hoạch tác chiến của địch để có sách lược, kế hoạch tiến công, phòng thủ giành thắng lợi thay đổi cục diện trên từng chiến trường.
Tại Bến Tre, theo Đại tá Phan Định (Phan Văn Thậm), nguyên Phó Chỉ huy trưởng, Tham mưu trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh và đồng chí Thiên Lý Nhân, Trưởng ban Quân báo, trong Tổng tiến công và nổi dậy xuân mậu Thân 1968, Nguyễn Thanh Điềm-J2 qua thông tin từ Lê Minh Đảo đã cung cấp kịp thời tin tức tình báo về âm mưu hoạt động, tác chiến của địch, nhất là thông tin việc Nguyễn Văn Thiệu đưa quân Mỹ xuống mặt trận Kiến Hoà, giúp cho ta chủ động trong xây dựng kế hoạch tác chiến, huy động lực lượng, bố trí trận địa đánh địch, giành thắng lợi, tiêu diệt hàng trăm tên Mỹ- Nguỵ – giành thắng lợi lớn trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Xuân Mậu Thân năm 1968 tại Bến Tre. Cùng với thắng lợi của phong trào Đồng Khởi 1960 và chiến thắng Xuân Mậu Thân năm 1968 Bến Tre được Mặt trận Dân tộc giải phóng tuyên dương tám chữ vàng “Anh dũng Đồng Khởi, thắng Mỹ diệt nguỵ”.
“Điệp viên J2” Nguyễn Thanh Điềm
Năm 1968, do yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, lãnh đạo Quân báo Bến Tre giới thiệu và bàn giao J2 cho lực lượng An ninh T4; sau đó trực tiếp giới thiệu và bàn giao J2 cho An ninh Bà Rịa – Long Khánh và Lữ đoàn 316 Đặc công – Biệt động Sài Gòn – Gia Định, nhưng vẫn liên lạc và phối hợp chịu sự chỉ đạo của Quân báo tỉnh cho đến ngày 30/4/1975.
Năm 1969, thông qua mạng lưới điệp báo của lực lượng An ninh T4 và các mối quan hệ từ Lê Minh Đảo, J2 thâm nhập vào Bộ Tư lệnh sư đoàn 18 bộ binh ngụy nắm và cung cấp tình hình kế hoạch bố phòng của Lữ đoàn 54 pháo binh Hoa Kỳ; Liên đoàn Phòng vệ hỗn hợp Hoa Kỳ và kế hoạch phòng ngự tác chiến của địch tại tỉnh lỵ Long Khánh. J2 tức tốc báo cáo cho lãnh đạo An ninh Bà Rịa – Long Khánh; nhờ đó, ta nắm được tình hình bố trí lực lượng phòng thủ, tác chiến của địch. Căn cứ vào đó, lực lượng vũ trang Bà Rịa – Long Khánh xây dựng kế hoạch tấn công địch, giành thắng lợi. Trong trận đầu lực lượng ta đồng loạt nổ súng tấn công địch, tiêu diệt hàng trăm tên địch trong đó có 18 tên cố vấn Mỹ; phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh. Tại đồn Hoàng Diệu và thị xã Long Khánh ta tấn công tiêu diệt 42 tên, bị thương 27 tên Mỹ… Sau đợt 1, J2 tiếp tục nắm tình hình và kế hoạch phòng thủ, phản công của địch cung cấp cho lực lượng ta lên kế hoạch bất ngờ tấn công làm địch không trở tay kịp, tiêu diệt 47 tên Mỹ hàng chục tên ngụy,…
Còn việc quân giải phóng “phá tan cánh cửa thép Xuân Lộc” tháng 4/1975, nhiều người biết đến, nhưng ít ai biết được chính J2 – Nguyễn Thanh Điềm là người cung cấp những thông tin tình báo quan trong cho cách mạng và góp sức ngăn cản không cho quân ngụy sử dụng 02 quả bom CBU-55 (gọi là bom tiểu nguyên tử) vào trận địa. Lịch sử còn ghi, trận Xuân Lộc là trận quyết chiến chiến lược giữa ta và địch, quyết định cho thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Trong cuộc điện đàm giữa tên tướng Việt Nam Cộng hòa Lê Minh Đảo và tướng quân giải phóng – Quân đội Nhân dân Việt Nam Lê Nam Phong, Lê Minh Đảo nói : “Ai đang ở đâu đầu dây bên kia, tao sẽ đè bẹp tụi bây ở Xuân Lộc”. Đáp lại, tướng Lê Nam Phong: “Tao sẽ đánh gục tụi mầy tại Xuân Lộc này”.
Khi chiến sự diễn ra ác liệt giữa ta và địch 7 ngày trôi qua kể từ ngày 9/4/1975; trong lúc quân ta đang chiếm ưu thế tấn công như vũ bão, địch không còn khả năng phản kích, thì theo thông tin từ Lê Minh Đảo là Nguyễn Văn Thiệu cho sử dụng hai quả bom CBU-55 để cứu vãn tình hình. Mỗi quả bom có sức hủy diệt sự sống con người trong vùng bán kính 400 m2. Hay tin, Nguyễn Thanh Điềm tức tốc, trong đêm liên lạc với cơ sở báo cáo khẩn cấp cho lãnh đạo An ninh Bà Rịa – Long Khánh; kịp thời báo cáo cho Ban Chỉ huy Mặt trận cho lực lượng ta rút ra khỏi vị trí trú quân ở Mặt trận ngã ba Dầu Giây, nên khi địch ném hai quả bom CBU-55 vào trận địa đã không gây thương vong lớn cho ta. Dù ném 02 quả CBU-55 nhưng địch vẫn không cứu vãn được tình thế “cánh cửa thép Xuân Lộc” bị quân giải phóng phá tan. J2 không theo Lê Minh Đảo tháo chạy về Biên Hòa mà ở lại theo dõi địch và báo cáo, chỉ điểm nơi trú ẩn của tên Đại tá Lê Xuân Hiếu Trung đoàn Trưởng trung Đoàn 43 và 2 Tiểu đoàn của Sư đoàn 18 cho lực lượng ta bao vây tiêu diệt.
Sau phá tan “cánh cửa thép Xuân Lộc” J2 nhận lệnh khẩn cấp từ lãnh đạo An ninh T4 về phục vụ cho Lữ đoàn 316 – Đặc công – Biệt động Sài Gòn – Gia Định, thâm nhập nắm tình hình, bố phòng của địch, vẽ sơ đồ phòng thủ, tác chiến hai căn cứ: Thành Cổ Loa – căn cứ Pháo binh và Trại Phù Đổng – căn cứ Thiết giáp, đây là hai cứ điểm cuối cùng của địch, phục vụ cho Lữ đoàn 316 đánh chiếm, đưa lực lượng ta vào chiếm dinh Độc Lập giải phóng Sài Gòn. Nhận mệnh lệnh trong điều kiện vô cùng khẩn cấp, giữa lúc chiến trận diễn ra ác liệt và vô cùng nguy hiểm, với vỏ bọc là con nuôi tướng Lê Minh Đảo cùng với sự mưu trí, dũng cảm, J2 đã thâm nhập thành công, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ phục vụ cho Z32, Lữ đoàn 316, xây dựng kế hoạch tác chiến giành thắng lợi vào sáng 30/4/1975, mở đường cho quân giải phóng tiến về giải phóng Sài Gòn mà không gặp phải sự kháng cự nào của địch. Đồng chí Đại tá, Anh hùng lực lượng vũ trang Nguyễn Văn Tăng (Tư Tăng), Phó tư lệnh Lữ đoàn 316, nhận xét: “Đồng chí Nguyễn Thanh Điềm là một đồng chí chiến đấu mưu trí, dũng cảm, kiên cường, không ngại gian khổ, không ngại hy sinh để hoàn thành nhiệm vụ”.
Trên mặt trận an ninh, J2 chiến đấu đầy gan dạ, mưu trí và lập nhiều chiến công xuất sắc. Đầu tiên có thể kể đến là 5 trận đánh vào cơ quan đầu não nguỵ quyền Sài Gòn những năm 1970, gây tiếng vang nhằm hỗ trợ cho phái đoàn đàm phán của Chính Phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam ở Paris. Với sự chỉ đạo của lãnh đạo An ninh T4, Tổ An ninh cảm tử do Trung tá, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Thị Mến trực tiếp chỉ huy với các chiến sĩ: Nguyễn Thanh Điềm – J2, Lâm Thị Trang (Bảy ốm), Nguyễn Văn Nghe, lên kế hoạch tiêu diệt các mục tiêu theo chỉ đạo của lãnh đạo. Nguyễn Thanh Điềm – J2 nhờ có giấy “Sự vụ lệnh đặc biệt” do Lê Minh Đảo xin của Văn phòng phủ Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cấp cho, nên rất tự tin trong hành sự. Những trận đánh đó là: Đánh vào trại cảnh sát dã chiến AMAX, tháng 4/1970, ở số 90 Trần Quốc Toản, nay là đường 3/2, Quận 10, TP. Hồ Chí Minh, tiêu diệt 28 tên cảnh sát ác ôn, chuyên đàn áp phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên,… Thứ hai, tháng 4/1971, đánh vào Ty cảnh sát Gia Định (còn gọi là Bót Hàng Keo), tiêu diệt 25 tên cảnh sát ác ôn. Thứ ba, tháng 4/1970, đánh vào Bộ Tư lệnh cảnh sát quốc gia nguỵ, số 258, đường Võ Tánh, Quận nhì (nay là đường Nguyễn Trãi, phường Nguyễn Cư Trinh, Quận I, TP. Hồ Chí Minh), tiêu diệt 18 tên sĩ quan cảnh sát nguỵ. Thứ tư, tháng 4/1970, đánh sập Toà soạn báo Dân Ý, cơ quan tuyên truyền phản động của địch. Thứ năm, giữa tháng 4/1970, tổ chức bắn bị thương tên Huỳnh Công Trà (Năm Trà) tên cán bộ trí vận, chiêu hồi, chỉ điểm cho địch đánh phá gây thiệt hại cho cơ sở cách mạng… Đây là 5 trận đánh mà J2 tham gia trực tiếp năm 1970 và 1971 vào các cơ quan đầu não địch vào ban ngày giữa Thủ đô Sài Gòn, gây hoang mang giới chóp bu chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, làm chấn động dư luận quốc tế, hỗ trợ cho phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên, các tầng lớp nhân dân ở đô thành Sài Gòn, đặc biệt là ủng hộ mạnh mẽ cho Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam và Chính phủ Việt Nam dân chủ Cộng hoà giành thắng lợi tại Hội nghị Paris, buộc Mỹ rút quân về nước, lập lại hoà bình cho Việt Nam.
Sau chiến thắng ngày 30/4/1975, những chiến sĩ cách mạng được về sum họp bên gia đình, mừng vui chiến thắng, riêng Nguyễn Thanh Điềm – J2 thì biệt vô âm tính, vì được tổ chức giao nhiệm vụ đặc biệt: “Vào trại biệt giam, cải tạo cùng với đám sĩ quan, nguỵ quân, nguỵ quyền như một tên phản động để nắm âm mưu hoạt động chống phá, lật đổ chính quyền cách mạng của chúng”. Nhận nhiệm vụ, Nguyễn Thanh Điềm – J2, sống những năm dài trong trại biệt giam, hết trại giam này, chuyển đến trại giam khác để nắm âm mưu hoạt động lật đổ chính quyền cách mạng của bọn tàn quân nguỵ, các tổ chức phản động, trong thời gian gần 15 năm. Chính điều này, mà vừa qua và hiện nay nhiều người có định kiến với ông thắc mắc, vì sao sau giải phóng Nguyễn Thanh Điềm đi đâu, làm gì mà không về quê hương? Trong nhiệm vụ đặc biệt này, J2 được cơ cấu nằm trong Ban Chuyên án phá các tổ chức phản động, để phục vụ và trực tiếp tham gia phá các tổ chức phản động lớn nhất miền Nam, do tướng Nguyễn Phước Tân (Bộ Công an) trực tiếp chỉ đạo như: Mặt trận Liên ban Đông Dương, do tướng Bùi Thế Lân, nguyên Tư lệnh binh chủng thuỷ quân lục chiến nguỵ cầm đầu; tổ chức phản động “Liên tôn phục quốc” do linh mục Vàng cầm đầu; “Mặt trận Việt Nam quốc dân khởi nghĩa” do tên Hai Thành cầm đầu; “Mặt trận giải thể cộng sản”, do tên Phước Lớn (Thiếu ta nguỵ” cầm đầu; “Mặt trận Thanh niên Việt Nam ái quốc”, do tên Nguyễn Trọng Đạt – Thiếu uý nguỵ cần đầu; “Mặt trận Hoa nở về đêm”; “Mặt trận Đại đồng”, do tên Huỳnh Bá Du – Đại tá nguỵ cầm đầu; “Mặt trận nghĩa quân phục quốc” do tên Trần Cao Hùng – Đại tá cảnh sát nguỵ cầm đầu… Qua phá các vụ án phản động này, Ban Chuyên án đã khai thác, tiếp tục phá 40 nhóm phản cách mạng và bọn Fulro, trong quét 62 cụm, toán vũ trang, xoá 95 mật khu… bắt và cải tạo hàng ngàn tên phản động.
Do nằm trong Ban Chuyên án, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Công an và trực tiếp thâm nhập, khai thác nắm được đường dây tổ chức các nhóm phản động ở các tỉnh, trong đó có Bến Tre, nên J2 trực tiếp báo cáo cho quân báo tỉnh về các tổ chức phản động đang hoạt động ở Bến Tre. Từ thông tin đó, Quân báo tỉnh đã phối hợp với Công an tỉnh kịp thời phá các tổ chức phản động ở Bến Tre như: Thanh niên chí nguyện; tổ chức cao đài phục quốc; tổ chức Mặt trận dân tộc tự quyết; Thanh long phục quốc; Khu chiến thuật bảng giang II.
Đại tá Huỳnh Văn Hoàng, nguyên Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, nguyên Giám đốc Công an Đồng Nai nhận xét: “Nguyễn Thanh Điềm – D.104, xuyên suốt 30 năm luôn trung thành với lãnh đạo, gắn bó với ngành an ninh tỉnh… Anh Điềm lập được nhiều chiến công suất sắc, phục vụ cho ngành An ninh Đồng Nai phá được những vụ án lớn liên quan đến cả nước và khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Chủ tịch nước tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho tập thể phòng PA16 Công an Đồng Nai, về mặt cá nhân đã có phần công lao đóng góp xuất sắc của Nguyễn Thành Điềm – D.104”.
Ngoài làm nhiệm vụ điệp viên hoạt động trong lòng địch, Nguyễn Thanh Điềm – J2, D.104 còn là một chiến sĩ hậu cần xuất sắc, cung cấp khối lượng lớn lương thực, thực phẩm, thuốc tây cho lực lượng An ninh Bà Rịa – Long Khánh, trong những thời điểm địch bao vây, phong tỏa nghiêm ngặt các con đường tiếp tế cho cách mạng. Giai đoạn 1970 – 1973, 1974 địch tăng cường kiểm soát, bịt kín các cửa khẩu, tuyến hành lang huyết mạch để phòng ngừa sự tấn công của ta và cũng để chặn đường tiếp tế cho chiến khu Đ, đã gây cho lực lượng ta thiếu thốn nghiêm trọng về lương thực, thực phẩm, thuốc men trị bệnh cho thương binh, bộ đội bị sốt rét rừng. Lực lượng ta hàng tháng trời không có gạo, muối… chỉ ăn củ chuối, củ mài, rau rừng thay cơm; thương binh nhẹ trở thành nặng, bộ đội bệnh sốt rét nhưng không có thuốc điều trị… gây cho ta thiệt hại rất lớn về nhân mạng. Trước tình hình đó lãnh đạo An ninh Bà Rịa – Long Khánh, An ninh huyện Độc Lập giao cho Nguyễn Thanh Điềm bằng mọi giá phải tìm cách tiếp tế cho lực lượng ta.
Nhận nhiệm vụ muôn vàn khó khăn, trong lúc lực lượng cảnh sát, mật thám, an ninh quân đội ngụy dày đặc các tuyến đường, cửa khẩu, làm cách nào để đưa lương thực, thuốc men vào chiến khu? Mặt khác bọn chúng siết chặt, khống chế việc bán thuốc tây số lượng lớn cho dân. Lợi dụng cái mác là con nuôi tướng Lê Minh Đảo, thương binh, mặc quân phục với hàm Đại tá 3 Bông mai trên bâu áo, do cha nuôi cấp cho Nguyễn Thanh Điềm, tập hợp lực lượng thương phế binh thu gom thuốc và tổ chức đưa vào cho lực lượng ta trót lọt từ năm 1970 – 1974 với hàng ngàn tấn gạo, thực phẩm, thuốc men thông qua hình thức đổi gạo, lấy đặc sản người dân tộc, (người dân tộc thực chất là do ta tổ chức) nhờ đó mà đã giải quyết được tình trạng thiếu lương thực, thực phẩm, thuốc men đảm bảo cho lực lượng ta có gạo ăn, thuốc trị bệnh, đảm bảo sức khoẻ, sức chiến đấu, tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh góp phần giải phóng miền Nam.
Năm 2005, trở về cuộc sống đời thường, Nguyễn Thanh Điềm tích cực tham gia hoạt động đền ơn đáp nghĩa, tri ân gia đình liệt sĩ và công tác thiện nguyện xã hội, đặc biệt là luôn hướng về quê hương Bến Tre – nơi anh sinh ra và lớn lên. Theo xác nhận của đồng chí Trung tá Nguyễn Thị Minh Nguyệt Phó trưởng Phòng Hậu cần, Công an Đồng Nai, huy hiệu 55 năm tuổi Đảng cho biết: Đồng chí Nguyễn Thanh Điềm đã vận động làm rất nhiều cây cầu, làm nhiều con đường nông thôn, giúp đỡ nạn nhân chất độc da cam, giúp đỡ người già neo đơn, tàn tật, vận động các mạnh thường quân trên 200 tỷ đồng để giúp đỡ cho gia đình thương binh, liệt sĩ, giúp đỡ cho học sinh nghèo… Xây đền thờ Bác Hồ, các anh hùng liệt sĩ ở Bến Tre và Đồng Nai. Theo Đại tá Trần Quốc Việt, nguyên Uỷ viên Ban thường vụ Tỉnh ủy, nguyên Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh, nguyên Chủ tịch Hội Cựu chiến binh tỉnh, huy hiệu 55 năm tuổi đảng cho biết: “Đồng chí Nguyễn Thành Điềm đã vận động mạnh thường quân hỗ trợ cho cựu chiến binh số tiền trên 14 tỷ đồng, xây dựng 178 ngôi nhà tình nghĩa, nhà nghĩa tình đồng đội, xây cầu nông thôn… Hiện nay, dù tuổi gần 80 nhưng anh vẫn miệt mài với công tác tri ân gia đình liệt sĩ. Anh hiện là Uỷ viên Ban Chấp hành Hội Hỗ trợ gia đình liệt sĩ Việt Nam, Chủ tịch Chi Hội Hỗ trợ tri ân liệt sĩ tỉnh Bến Tre. Nhiều đồng chí, đồng đội của ông nhận xét với tình cảm yêu mến, kính phục “Cựu chiến binh Nguyễn Thanh Điềm là người làm công tác đền ơn, đáp nghĩa tầm cỡ, có một không hai, thể hiện truyền thống, bản sắc văn hóa Việt Nam – nhân nghĩa Việt Nam”.
Nổi đau cuộc đời và những uẩn khúc cần làm sáng tỏ!
Tìm hiểu về quá trình hoạt động cách mạng của Nguyễn Thanh Điềm, chúng tôi khâm phục sự mưu chí, dũng cảm của ông. Với những thành tích lẫy lừng trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; trong phá các tổ chức phản động sau 30/4/1975; trong công tác đền ơn đáp nghĩa, từ thiện xã hội… Nguyễn Thanh Điềm xứng đáng được tuyên dương danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước; xứng đáng được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân trong sư nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và vinh danh danh hiệu “công dân Đồng Khởi tiêu biểu”. Thế những vì nhiều lý do tế nhị, đến giờ phút này ông vẫn chưa được công nhận bất cứ danh hiệu nào, trong khi những đơn vị mà ông tham gia chiến đấu, như: Bộ phận Quân báo tỉnh đội Bến Tre, An ninh T4, Lữ đoàn 316, Phòng A16, Công an ỉnh Đồng Nai),… đều được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân.
Có lẽ vì vậy mà Nguyễn Thanh Điềm lúc nào cũng thấy ông cũng ưu buồn, suy tư. Trò chuyện với chúng tôi, ông tâm sự: “Tôi theo Đảng làm cách mạng, phụng sự Tổ quốc suốt một đời, nhưng tôi mang một nỗi đau cuộc đời chỉ có Đảng, các thủ trưởng và đồng đội trực tiếp chiến đấu với tôi và những người đã ngã xuống mới thấu hiểu được”. Nghe ông tâm sự và tìm hiểu tôi mới biết, tổ chức đưa ông ra cài vào hoạt động trong lòng địch, các thủ trưởng đã xác nhận; thành tích chiến đấu, hoạt động tình báo các thủ trưởng trực tiếp cũng đã xác nhận. Được Đảng, nhà nước tặng thưởng huân chương, huy chương; được lãnh đạo Quân báo tỉnh đề nghị và được tặng kỷ niệm chương ngành Tình báo Quốc phòng; kỷ niệm chương 32 năm vì sự nghiệp bảo vệ an ninh Tổ quốc. Được các thủ trưởng, đồng đội xác nhận trường hợp bị thương trong chiến đấu, được hưởng chế độ thương binh. Điều đó đồng nghĩa các thủ trưởng, đồng chí, đồng đội trực tiếp chiến đấu và Đảng, nhà nước công nhận ông là một chiến sĩ cách mạng kiên trung hoạt động trong lòng địch. Thế nhưng hiện nay, có một số người thuộc thế hệ sau, chỉ “nghe nói” không có chứng cứ vật chất lịch sử cụ thể nhưng vẫn nghi ngờ ông “có vấn đề về chính trị”? Đó là nỗi đau không chỉ riêng ông mà cả gia đình, dòng họ, con cháu hiện tại của ông. Chúng tôi nghĩ cơ quan chức năng cần xác minh, làm rõ nếu có chứng cứ vật chất cụ thể thì kết luận rõ ràng, không thể kết luận “có vấn đề chính trị” chung chung về thân phận một con người mà không có chứng cứ vật chất cụ thể, không vì một vài ý kiến mang tính chất định kiến cá nhân, chỉ “nghe nói”, “nghe nói” mà kết luận “có vấn đề chính trị” đối với một chiến sĩ tình báo hoạt động trong lòng địch.
Còn trong hoạt động tình nghĩa, tri ân các Anh hùng liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng, Nguyễn Thanh Điềm làm là tự nguyện, với tham vọng lo cho gia đình đồng chí đồng đội đã hy sinh, chứ có phải mong muốn được danh hiệu này, danh hiệu nọ đâu thế mà vẫn bị một số nghười hiểu sai. Theo văn bản của Đại tá Trần Quốc Việt, nguyên Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, nguyên Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh, nguyên Chủ tịch Hội Cựu chiến binh tỉnh Bến Tre: Với thành tích đóng góp của Nguyễn Thanh Điềm với Hội Khoa học Kỹ thuật cầu đường trước đó và cho Cựu Chiến binh tỉnh sau này góp phần chăm lo cho gia đình chính sách, với số tiền trên 14 tỷ đồng để xây dựng trên 178 căn nhà tình nghĩa, xây cầu nông thôn,… rất xứng đáng được xét tặng danh hiệu “Công dân Đồng Khởi tiêu biểu”. Đại tá Trần Quốc Việt có văn bản đề nghị Hội Cựu chiến binh tỉnh, Hội Hỗ trợ gia đình Liệt sĩ Việt Nam đề nghị cấp có thẩm quyền xét tặng danh hiệu “Công dân Đồng Khởi tiêu biểu” cho tôi. Trên cơ sở đó, Hội Hỗ trợ gia đình liệt sĩ Việt Nam cơ quan chủ quản của tôi có văn bản đề nghị Hội Cựu chiến binh tỉnh, Sở Nội vụ tỉnh, Uỷ ban nhân dân tỉnh, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Bến Tre xem xét, ghi nhận, tôn vinh danh hiệu “Công dân Đồng Khởi tiêu biểu” cho ông Nguyễn Thanh Điềm, nhưng không được cơ quan trên xem xét, vì cho rằng không có địa phương, cơ quan nào đề nghị và trễ hạn nên trả hồ sơ”?
Chúng tôi đề nghị các cơ quan lãnh đạo tỉnh Bến Tre cần làm rõ số tiền hơn 14 tỷ đồng mà đồng chí Nguyễn Thanh Điềm vận động về nộp cho Cựu chiến binh tỉnh (thời đồng chí Anh hùng lực lượng vũ trang Thiếu tướng Nguyễn Hữu Vị; đồng chí Đại tá Phan Định; đồng chí Đại tá Trần Văn Bảy (Bảy Sơn) Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân; đồng chí Đại tá Trần Quốc Việt,… làm lãnh đạo Hội Cựu Chiến binh tỉnh) được sử dụng như thế nào? Cụ thể là số tiền này đã chuyển hỗ trợ cho địa phương nào? Những cá nhân nào được thụ hưởng? Và ông Nguyễn Thanh Điềm đã được khen thưởng gì chưa theo chủ trương của tỉnh? Trên cơ sở đó có văn bản trả lời Hội Hỗ trợ gia đình liệt sĩ Việt Nam biết, để thông tin cho toàn Hội biết về trường hợp của đồng chí Nguyễn Thanh Điềm để tránh dư luận cho rằng đồng chí tự thổi phòng thành tích, để nổi tiếng và trả lại công bằng cho đồng chí.
Một lần nữa xin khẳng định, với những tài liệu mà chúng tôi đang giữ, Nguyễn Thanh Điềm, J2, D.104 – là một chiến sĩ tình báo kiên trung với Đảng, với cách mạng, với nhiều thành tích lẫy lừng, ít có người cùng thời sánh kịp. Đây là sự thành công của Quân báo Bến Tre, lúc bấy giờ trong việc cài người vào hoạt động trong lòng địch, dù sao này, đồng chí được bàn giao chiến đấu cho lực lượng an ninh, nhưng vẫn giữ mối liên hệ với Quân báo Bến Tre cho đến sau ngày 30/4/1975. Nhiều thủ trưởng trực tiếp của ông nhận xét: Với những thành tích đạt được trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước – Nguyễn Thanh Điềm xứng đáng được tuyên dương danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”, trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xứng đáng được xét tặng danh hiệu “Công dân Đồng Khởi tiêu biểu” trong sự nghiệp xây dựng quê hương Bến Tre ngày nay./.
Tác Giả: Cao Dũng và Việt Phương