Với biệt danh “Báo Đen” thuộc Đội Biệt động Hội An, ông đã từng tả xung hữu đột, xuất quỷ nhập thần, bất ngờ, táo bạo, đánh địch trong nội ô, đánh vào đầu não địch; tinh thần đấu tranh chống ly khai, chào cờ ngụy ở nhà tù Côn Đảo từ năm 1968-1974.
Gia đình ông Đinh Văn Lời (tức “Báo Đen”), một gia đình cả ba thế hệ ông nội, cha, con, cùng chung cảnh lao tù, một gia đình có ba anh em tham gia vào Đội Biệt động Hội An. Riêng ông, những năm tháng bị địch bắt tra tấn, giam cầm ở các nhà tù đế quốc, sức chịu đựng quá phi thường của một chàng trai sinh trưởng trong gia đình vốn có truyền thống yêu nước.
Ông không những trong chiến đấu dũng cảm, gan dạ, mà trong cuộc sống đời thường, ông còn là một cựu chiến binh, một thương binh 2/4 giỏi làm kinh tế, được Nhà nước và xã hội vinh danh.
Ông Đinh Văn Lời (người ngồi bên trái) trong một đợt tặng quà
Cuộc đời cách mạng của ông từ tuổi thiếu niên cho đến lúc nghỉ hưu là một chặng đường đầy máu và hoa. Những trận đánh táo bạo năm nào, những cuộc đối đầu sinh tử với địch trong các nhà tù đế quốc rất đáng được lưu giữ, trân trọng. Một thương binh, với 74 tuổi đời mà ông đã có 58 năm tuổi Đảng. Được kết nạp Đảng bí mật giữa lòng phố cổ Hội An, do địch hoàn toàn kiểm soát, lúc đó ông chưa tròn 17 tuổi. Ông và đồng đội bị địch vây bắt trong một trận chiến đấu không cân sức tại chùa Lễ Nghĩa (Hội An), rồi bị lưu đày ra Côn Đảo. Gần sáu năm ông chống chào cờ ba que của địch, chống đi làm khổ sai, bị địch giam cầm, tra tấn, đàn áp đẫm máu. Từ địa ngục trần gian Côn Đảo ông chiến thắng trở về trong đợt trao trả chuyến cuối cùng ngày 22 tháng 2 năm 1974. Ông được phục hồi Đảng tịch, được vinh dự tuyển chọn vào lực lượng an ninh Khu V, phong quân hàm Thiếu úy an ninh, năm đó ông 23 tuổi, trẻ nhất trong Tiểu đoàn 10 lực lượng an ninh Khu 5. Và một lần nữa ông vinh dự được tuyển chọn vào lực lượng bảo vệ tiếp cận các đồng chí lãnh đạo Khu ủy Khu V, trong đó có đồng chí Võ Chí Công, Nguyễn Xuân Nhĩ… Những lúc nghe ông tâm sự, về cuộc đời người lính biệt động mà ông đã từng trải, tôi vô cùng cảm động và khâm phục.
“Những trái tim như ngọc sáng ngời”, tôi muốn dùng câu thơ này để ngợi ca các chiến sĩ trong Đội Biệt động Hội An, mà ông là người chỉ huy tài năng, giàu trí tuệ và lòng quả cảm. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, ông đã được Đảng và Nhà nước khen tặng hàng chục huân chương, huy chương các loại, danh hiệu Chiến sĩ Thi đua và nhiều bằng khen, giấy khen. Tung hoành trong nhà tù của Mỹ – ngụy ở miền Nam và mãi mãi là tấm gương sáng về lòng kiên trung với Đảng, tinh thần và nghị lực phi thường cho con cháu noi theo. Khi trở lại đời thường, từ hai bàn tay trắng, ông vươn lên thoát khỏi đói nghèo, làm ăn khấm khá. Trái tim nhân hậu, nghĩa tình, trọn vẹn thủy chung với Đảng, với dân, với đồng đội, với quê hương như nhiều nhà báo, nhà văn từ Trung ương đến các địa phương đã viết về ông và ca ngợi ông với nhiều tựa đề: Người Đội trưởng Đội Biệt động Hội An. Có trái tim thép: Những bông hồng thép: Gặp lại chiến sĩ biệt động thành quả cảm năm xưa; Người Đội trưởng biệt động nội ô: Người mang mật danh “Báo Đen”; Thủ lĩnh “Báo Đen”: Người không tiếc tuổi thanh xuân; Người không đầu hàng số phận: Gan dạ trước quân thù, Lửa đỏ càng rõ tuổi vàng: Xuất quỷ nhập thần; Những chiến công thầm lặng; Xiềng xích gông cùm không thắng nổi trái tim yêu nước; Nặng nghĩa tình với đồng đội quê hương: Người đảng viên gương mẫu, Ông Bụt của đời thường: Mãi mãi ngời sáng trong quá khứ và hiện tại… Tôi hy vọng, có một ngày nào đó, con cháu của gia đình, hay con cháu của đồng đội ông có dịp mở lại những trang hồi ký này say sưa đọc để họ tự hào, để họ “ôn cố tri tân”, cùng cảm thông và chia sẻ. Tôi đã lắng nghe ông tâm sự nhiều ngày, nghe ông kể và ghi chép lại câu chuyện mà ông kể. Những lúc say sưa kể, ký ức ông dâng tràn với bao niềm thổn thức, và đôi mắt ông đỏ hoe. Khi ông kể về những trận chiến đấu, chui rúc vào tận hang ổ sào huyệt của địch để đặt bom, mìn, ném lựu đạn, đến tận nhà của những tên ác ôn trong phố để ám sát, có nhiều đêm mưa phùn giá rét lạnh lẽo thấu xương thịt, ông và đồng đội nằm chờ trên mái ngói nhà cổ, trên cây cổ thụ hơn hai tiếng đồng hồ để phục kích ám sát nhiều tên trưởng, phó ty cảnh sát, an ninh quân đội, chiêu hồi… và nhiều tên ác ôn có nợ máu với nhân dân. Bọn chúng sợ đến nỗi, ban đêm một số tên không dám ngủ ở nhà mình.
Nhất là trước và sau Tết Mậu Thân năm 1968, nhiều tên ác ôn sợ Việt cộng tối về tấn công, cứ 5 giờ chiều họ ôm chiếu, ôm mền về Hội An tìm chỗ ngủ. Nhưng họ lại chui vào cơ sở của Việt cộng, ngủ chung với Việt cộng, đi trốn Việt cộng mà họ không hề hay biết tại đây có Việt cộng. Giọng đầy cảm xúc, khi ông kể về đồng đội và những tấm gương hy sinh trong tù, những người bạn tù nhường cơm sẻ áo, chăm sóc thuốc men cho ông. Hàng chục anh em tù và đồng đội thay phiên nhau trực nhiều năm liền trong tù, xoa dịu những cơn đau co giật khủng khiếp cho ông. Mỗi lần các vết thương lở loét do kẻ thủ tra tấn hành hạ ông, nhờ những người bạn tù như anh Phan Trí, bác sĩ Nguyễn Minh Triết và đồng đội hết lòng cứu chữa đã giành lại sự sống cho ông.
Một số hình ảnh Ông Đinh Văn Lời thăm và tặng quà các gia đình thương bệnh binh và các cháu con liệt sĩ
Đang trầm buồn kể về những ngày gian khó, ông lặng người một lúc rồi như bừng tỉnh, ông kể về những trận đối đầu với địch là tên trung tá, tỉnh trưởng Quảng Nam Lê Trí Tín khi sa vào tay chúng. Ông dùng mưu “lấy địch trị địch”. Vào tù ông bí mật lên phương án tiếp tục theo dõi những tên gián điệp chỉ điểm trong tù, 2 giờ sáng ngày 8 tháng 7 năm 1968, ông tổ chức trùm mền tên gián điệp H.T.T, tại phòng F.2 nhà lao Hội An. Hơn sáu năm bị địch hành hạ trong các nhà tù đế quốc, nhất là địa ngục trần gian Côn Đảo, ông được Đảng ủy nhà lao phân công làm bí thư chi bộ. Ông tổ chức anh em đấu tranh chống chào cờ ba que của địch, chống đi làm khổ sai, đòi thả tự do, đòi địch cho anh em tù chính trị được ra ngoài ăn cơm, tắm nắng và tắm giặt, đòi địch trao trả về với cách mạng. Bị chúng bắt giam cầm ở chuồng cọp, chuồng bò và các trại cấm cố. Nhiều lần bị chúng đàn áp đẫm máu, chỉ huy lực lượng thanh niên tù còn sức khỏe, bịt khẩu trang tự làm, chống trả lại địch quyết liệt. Chúng bắn lựu đạn cay, lựu đạn gây ngạt và lựu đạn gây ói mửa vào phòng giam, ông và đồng đội bốc lựu đạn chọi lại bọn chúng. Chúng mở cửa tấn công vào phòng giam, dùng những thanh sắt, bá trắc, dùi cui đàn áp đánh đập dã man, anh em tù chính trị. Ông và đồng đội gồng lưng chịu trận những trận đòn sinh tử để che chở cho các đồng chí già yếu bệnh tật khỏi bị chúng đánh đập; đập vỡ chum đựng nước, lấy mảnh sành đâm lại bọn cảnh sát và bọn an ninh trật tự.
Ông cảm thấy còn mắc nợ cuộc đời nhiều với những người đã ngã xuống và với con cháu của đồng đội ông. Bởi vậy, lúc được nghỉ ngơi ông chưa tự cho phép mình được hưởng an nhàn, vẫn tìm tòi sáng tạo trong lao động sản xuất. Khi cơ ngơi đã vững chãi thì trái tim nhân hậu của “Báo Đen” có dịp trả nợ cuộc đời. Ông giúp đỡ con cháu của các gia đình thương, bệnh binh, liệt sĩ, đồng đội của ông và những người tàn tật, cơ nhỡ có công ăn việc làm ổn định. Hàng chục tấn gạo, hàng trăm triệu đồng, mỳ tôm, mền, mùng, sách vở cứu đói cho đồng bào bị thiên tai bão lụt, người nghèo, xây dựng nhà tình nghĩa, tạo công ăn việc làm cho họ ở xưởng mộc của ông… Những việc làm đầy nhân hậu, nghĩa tình đó, ông đã được Chủ tịch nước Trần Đức Lương gửi thư khen ngợi. Hơn 60 lượt nhà báo, hơn 30 nhà văn trong cả nước viết bài ca ngợi và khâm phục tấm lòng thơm thảo của ông. Họ đã gọi ông là “Ông Bụt của đời thường”, nhưng ông nghĩ đó cũng là trách nhiệm của mình. Ông là “hạt gạo còn sót lại trên sàng” bởi vậy ông đã thực hiện với bao điều ông từng nghĩ về đồng đội và nhân dân.
Vẫn biết rằng một cựu chiến binh bước sang tuổi 70 như ông, đã từng chịu các trận tra tấn tàn bạo của kẻ thù, sẽ làm hạn chế trí nhớ của ông. Nhưng với những gì mà ông đã cống hiến, chắc chắn đồng đội và nhân dân sẽ không bao giờ quên.
(còn tiếp)
Bài, ảnh: Hồng Loan