Nhân chuyến công tác về huyện Thạch Thất – Hà Nội, tôi được cựu chiến binh Nguyễn Minh Tâm, Nguyễn Văn Thìn nguyên ở C4 D1 E 2 F3 đưa tôi đến thăm chú Nguyễn Anh To, sinh năm 1953, trú thôn Thanh Câu, xã Lại Thượng, huyện Thạch Thất cùng đơn vị. Và ký ức trận đánh đã được đã tái hiện qua lời kể của ông To.
Câu chuyện đã suýt soát 40 năm rồi, nhưng trong tâm trí ông nó lại hiện lên rõ nét như câu chuyện của ngày hôm qua vậy.
11 giờ 30 phút, ngày 16/4/1975, từ Đại đội 3 D1 E2 F3 Sao Vàng, ông được cấp trên điều động về C1 D1 E2 với cương vị C trưởng. C của ông có 7 đồng chí, gồm: 1 quản lý, 2 nuôi quân, 1 tiểu đội trưởng, 1 Trung đội trưởng và 2 chiến sĩ. Ông To buồn và lo vì sao cấp trên điều mình về đơn vị như thế. Đang phân vân lo ngại thì nhận được điện báo của tiểu đoàn thông báo đại đội được bổ sung thêm cán bộ và quân số.
12 giờ kém 15 phút, đồng chí Thành được trên điều về làm chính trị viên, đồng chí Bên điều về làm C Phó. Chỉ 10 phút, ban chỉ huy họp thống nhất (cấp ủy) và chi bộ lại tiếp tục hoạt động.
12 giờ 15 phút, đồng chí Bên Đại đội phó họp với bên bộ phận quản lý nuôi quân để chuẩn bị lương thực, thực phẩm, vũ khí, đạn dược … Ông To cùng đồng chí Chính trị viên lên tiểu đoàn nhận bổ sung quân số vui mừng và phấn khởi, chưa được tích tắc thì một nỗi lo không sao chịu đựng nổi. Vì Đại đội được bổ sung 120 đồng chí, trong đó cán bộ Trung đội và tiểu đội lấy từ các C1 và C2 sang 12 đồng chí, còn lại 108 đồng chí là lính tân binh của Hà Tây (cũ) nhập ngũ ngày 25/02/1975 vào chiến trường và bổ sung về đơn vị của ông. Ông và đồng chí Thành chính trị viên chỉ nhìn nhau không nói gì !
Một nhiệm vụ, một mệnh lệnh bất khả kháng, đắn đo, suy nghĩ khoảng 5 phút không trao đổi với đồng chí Thành chính trị viên, ông đưa ra một quyết định táo bạo, đề nghị đảng ủy, chỉ huy tiểu đoàn – E trưởng E2 Đoàn Mai Ngữ, sau này ông Ngữ cũng là Sư đoàn trưởng Sư 3, rồi làm Phó Tư lệnh Tham mưu trưởng quân đoàn 14 ở Lạng Sơn (quê ở Hải Phòng), ông To xin nhận lỗi vì một lí do bộ đội chưa được huấn luyện chiến đấu, và đề nghị được tự kỷ luật với cấp trên không cho đơn vị đi chiến đấu, vì sợ tổn thất chiến sĩ, bởi chưa được huấn luyện chiến đấu ngày nào. Ông nói với cấp trên: “các đồng chí có hiểu không, ngoài kia không đầy 500 m, giữa nhà thờ Phước Đồng, cách làng Bùi Chu (làng của Tổng thống ngụy Nguyễn Văn Thiệu) ở Phan Rang, toàn bom, đạn, các loại… không ngớt tiếng nổ, thế trận như nước vỡ bờ, vậy mà mình không được tham chiến, vì cũng là đơn vị chiến đấu nằm trong đội hình chiến đấu của Sư đoàn 3 Sao Vàng, dọc giải Trung trung bộ, thưa các đồng chí chỉ huy Trung đoàn”. Hiểu và nắm được tâm tư nguyện vọng của ông về con người, xương máu của chiến sĩ tân binh mới vào quân ngũ, chưa phân biệt được tiếng nổ của AK – AR 15 – đại liên cối 60 – 61, chưa biết gì về đánh nhau, về chiến thuật tiến công, phòng ngự … táo bạo và cương quyết, Ông đề nghị đảng ủy, chỉ huy Trung đoàn bổ sung cho Đại Đội 2 của ông một ít cơ số đạn dược cho mỗi chiến sĩ mới. Ngoài việc đi làm nhiệm vụ, nhận quân và đạn dược xong, 14 giờ hôm đó, Ông đem toàn đại đội ra cánh đồng của thôn Phước Đồng (Phan Rang) huấn luyện cho bộ đội kỹ thuật và chiến thuật của chiến sĩ đại đội, bộ binh, mục đích để cho bộ đội quen với các loại tiếng nổ trong chiến trận.
17 giờ 40 phút, kết thúc huấn luyện, Ông cho bộ đội về lau chùi vũ khí, tắm rửa, ăn cơm.
18 giờ 30 phút sinh hoạt đại đội, quán triệt nhiệm vụ của đơn vị nằm trong đội hình của tiểu đoàn.
19 giờ, đơn vị nhận nhiệm vụ đi chiến đấu, sau khi nhận nhiệm vụ xong, Ông rất lo sợ vì toàn tân binh mới, sợ không hoàn thành nhiệm vụ, thương vong tổn thất đến xương máu đồng đội chiến sĩ.
19 giờ 20 phút, Ông cho đơn vị ra chiếm lĩnh trận địa xong, tất nhiên đại đội trên một hướng của Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 2 đánh vào khu nhà thờ Bửu Sơn (Phan Rang).
20 giờ : nổ súng sau 15 phút dồn dập của pháo binh, Cối và các hỏa lực đi cùng địch chống trả lời rạc.
20 giờ 30 phút: Đại đội làm chủ trận địa và làm công tác thương binh, tử sĩ, tảo trừ toàn quân ngụy và thu dọn chiến trường. Trận đánh ấy mang tính lịch sử cho F3 và cả quân đội ta (C3 D1 E2 F3), bắt sống trung tướng ngụy Nguyễn Vĩnh Nghi và chuẩn tướng Ngụy – Phạm Ngọc Sang. Quân của đơn vị chỉ bị thương 3 đồng chí, không hy sinh đồng chí nào. Sau trận ấy, ông cùng đơn vị được cấp trên khen ngợi.
CCB Nguyễn Anh To – mặc bộ quần áo nâu đen ở giữa – sát bên phải tác giả tại nhà riêng ông To, Cùng với CCB Nguyễn Minh Tâm (ngoài cùng bên phải )- và CCB Nguyễn Văn Thìn (ngoài cùng bên trái), cùng ở C4 – D1 – E2 – F3 đến thăm.
Trong chiến tranh có nhiều những tình huống trong chiến đấu, xong với ông Nguyễn Anh To cùng nhiều đồng đội lại là kỉ niệm quá sâu sắc, vì tham gia đơn vị chiến đấu toàn là lính tân binh mới đánh trận đầu chưa qua huấn luyện của con em lên đường nhập ngũ của Hà Tây (Thạnh Mỹ – Xuân Khanh, Vị Thủy) đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, không có thương vong, bắt sống 120 lính ngụy, thu nhiều chiến lợi phẩm.
20 giờ 30 phút, ngày 16/04/1975, ngày quán triệt mệnh lệnh, THẦN TỐC – THẦN TỐC – TÁO BẠO – TOÀN THẮNG.
Sau trận đánh ấy, ông được điều về C trưởng C2 D1 E2 F3, đến năm 1978 ông được điều về Quân khu 1 ở Lạng Sơn để đi học bổ túc lớp cán bộ Tiểu đoàn. Tháng 2 năm 1979 ông về làm D phó D7 của E 751 thuộc F 347 (quân đoàn 14 – Quân khu 1 Lạng Sơn).
Năm 1983, Ông được điều về phòng tác chiến quân đoàn 14 – Quân khu 1, đến tháng 12 năm 1991 ông về hưu, với quân hàm Trung Tá.
Trưởng thành từ C3, rồi sau về C2 – D1 – E2 – F3 SAO VÀNG, trận đánh của ngày 16/ 04/ 1975 ở thôn Phước Đồng, khu chùa Bảo Sơn – Phan Rang, đã để lại trong kí ức CCB Nguyễn Anh To kỷ niệm sâu sắc trong đời chiến sĩ cụ Hồ mà ông không bao giờ quên.
Bài, ảnh : Hồng Loan